Loading...

Hotline: 0905.329.019

Những doanh nghiệp nức tiếng thu ngàn tỷ mỗi năm sau cổ phần hoá

21/11/2017

Vinamilk, Điện Quang, Nhựa Bình Minh đều là các doanh nghiệp đầu ngành sữa, chiếu sáng và ngành nhựa rất thành công sau khi cởi bỏ “tấm áo chật hẹp” doanh nghiệp nhà nước.

 Việc cổ phần hóa đã giúp nhiều doanh nghiệp nhà nước gần như được “thay máu”, với mô hình quản trị mới, sở hữu đa thành phần, dẫn đến những màn bứt phá tăng trưởng “thần tốc”.
 
Vinamik chạm ngưỡng 10 tỷ USD vốn hoá
 
Vinamilk bắt đầu thực hiện cổ phần hóa (CPH) từ tháng 12/2003, tổng vốn điều lệ của Công ty đạt 1.590 tỷ đồng. Tại thời điểm 31/10/2005, Nhà nước nắm 60,47% vốn, tương ứng 961,5 tỷ đồng. Ngày 19/1/2006, cổ phiếu của Vinamilk (mã chứng khoán VNM) đã chính thức được niêm yết tại Trung tâm Chứng khoán Tp.HCM với giá khớp lệnh trong phiên giao dịch đầu tiên là 53.000 đồng/cổ phiếu.

Sản xuất chiếc ô tô mang thương hiệu Việt vẫn là ước mơ từ nhiều năm nay Năm 2017, bước vào mốc quan trọng “sống còn”, bất ngờ Vingroup đã tung ra “quả bom” gây chấn động “Sau 2 năm sẽ cho ra đời một mẫu ô tô mang thương hiệu Việt”. Một lần nữa, giấc mơ ô tô mang thương hiệu Việt lại được khuấy lên.  Đeo đuổi một giấc mơ  Tài liệu liên quan đến lĩnh vực sản xuất ô tô tại Việt Nam cho thấy: Gần 60 năm trước, một mẫu xe phiên bản Việt đã được lắp ráp ở miền Bắc. Chiếc xe 4 chỗ hiệu Chiến Thắng lăn bánh vào tháng 12/1958. Xe được phát triển từ mẫu xe Fregate chạy xăng của Pháp trên tinh thần nội địa hóa tối đa.  Năm 1970, mẫu xe La Dalat giá rẻ do người Việt lắp ráp theo tiêu chuẩn của Hãng Citroen (Pháp) cũng từng xuất hiện trên thị trường miền Nam. La Dalat có đến 4 dòng xe, trung bình mỗi năm bán được 1.000 chiếc từ năm 1970 đến 1975, tỉ lệ nội địa hóa đã tăng từ 25% đến 40% vào năm 1975.  Năm 1991, hai DN ô tô có vốn đầu tư nước ngoài đã được thành lập là Xí nghiệp Liên doanh ô tô Hòa Bình và Công ty Liên doanh Mekong Auto. Thời điểm đó liên doanh ô tô này triển khai lắp ráp các thương hiệu xe BMW, Kia, Mazda với mong muốn nhanh chóng tăng tỉ lệ nội địa hoá sản phẩm.  Năm 1995, 3 tên tuổi lớn trong ngành ô tô thế giới cùng thành lập liên doanh đầu tư sản xuất - lắp ráp ô tô tại Việt Nam là Toyota, Ford và Chysler kéo theo sau đó hàng loạt tên tuổi lớn như Ford, Honda, Mitsubishi, Mercedes-Benz... Ngành công nghiệp ô tô giai đoạn đó có tới 16 liên doanh với những tên tuổi lớn được hưởng nhiều chính sách ưu đãi vượt trội.  Năm 2004, hai DN Việt Nam là Công ty Cổ phần ô tô Trường Hải (Thaco) và Công ty Cổ phần ô tô Xuân Kiên (Vinaxuki) đã được Thủ tướng cho phép sản xuất, lắp ráp ôtô các loại.  Vinaxuki với ước mơ và quyết tâm của mình đã đổ hết vốn liếng, đầu tư lên tới hàng trăm tỉ đồng thuê chuyên gia Nhật thiết kế đào tạo công nhân… với mong muốn sản xuất ra các sản phẩm ô tô mang thương hiệu Việt. 3 mẫu xe du lịch mang thương hiệu Việt của Vinaxuki từng có tỉ lệ nội địa hóa 60-65% và được giới thiệu ở nhiều triển lãm. Tuy nhiên Vinaxuki vỡ nợ và phải đóng cửa vào năm 2012 với giấc mơ dang dở.  Còn Thaco đã đầu tư lớn tại tổ hợp ô tô tại Chu Lai, Quảng Nam và chọn cách hợp tác với các thương hiệu quốc tế chưa có cơ sở sản xuất tại Việt Nam và khu vực ASEAN để sản xuất xe du lịch. Lãnh đạo Thaco cho rằng: Phải có thị trường tiêu thụ sau đó mới quay lại đầu tư sản xuất từ các chi tiết đơn giản đến phức tạp, từng bước thâm nhập chuỗi sản xuất của các thương hiệu quốc tế...  Một cái tên khác cũng được nhắc đến trong câu chuyện “làm” ô tô tại Việt Nam đó là Hyundai Thành Công. Năm 2010 DN này nắm trong tay quyền nhập khẩu và phân phối các dòng xe du lịch của Hyundai tại Việt Nam. Chỉ trong thời gian rất ngắn Hyundai Thành Công vươn lên đứng thứ 2 tại thị trường ô tô du lịch Việt Nam với thị phần chiếm 18% và dần chuyển hướng tăng tỉ lệ sản xuất - lắp ráp tại Việt Nam (từ 20% lên 70-80% vào năm 2017).  Có thể nói quyết tâm, mong muốn phát triển ngành CN ô tô, có những sản phẩm nội địa hóa cao, mang thương hiệu Việt được Chính phủ thể hiện rất rõ từ nhiều năm qua, rất nhiều chính sách ưu đãi đã lần lượt ra đời. Làm ra chiếc ô tô mang thương hiệu Việt Nam cũng là ước mong, quyết tâm của nhiều DN. Tuy nhiên đến nay Việt Nam vẫn chưa có sản phẩm mang thương hiệu Việt, tỉ lệ nội địa hóa của các liên doanh đạt rất thấp, nhiều sản phẩm ngừng lắp ráp chuyển sang NK nguyên chiếc, tính cạnh tranh của các sản phẩm trong nước không cao, giá bán xe quá đắt so với khu vực và thế giới.  “Quả bom” Vingroup  Tháng 9/2017, Tập đoàn Vingroup, một cái tên rất nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực nhưng hoàn toàn xa lạ trong làng ô tô tuyên bố khởi công Tổ hợp Sản xuất ô tô Vinfast quy mô 3,5 tỷ USD cùng với mục tiêu làm ra xe ô tô thương hiệu Việt Nam (sau 2 năm), công suất tới 500.000 xe/năm, tỷ lệ nội địa hoá lên tới 60%.  Tập đoàn này được cho là có nguồn tài chính vững chắc khi công bố đã đạt được thỏa thuận vay của ngân hàng Thụy Sĩ 800 triệu USD, với lãi suất phù hợp. Việc có tiền cũng giúp Vinfast mua được công nghệ, mời được những chuyên gia hàng đầu thế giới. Vinfast cũng sẽ ưu tiên mua các linh kiện, phụ kiện mà các nhà sản xuất trong nước đang làm được, đồng thời sẽ hỗ trợ, hợp tác để có thêm nhiều nhà sản xuất các linh kiện, phụ kiện tại Việt Nam.  “Quả bom” Vingroup tung ra khiến ngành ô tô Việt vốn đang loay hoay giữa câu hỏi nhập hay lắp ráp choáng váng! Mục tiêu rất lớn của dự án khiến không ít người trong ngành tỏ ra hoài nghi khi ngành công nghiệp phụ trợ trong nước còn quá yếu và dung lượng thị trường mới loanh quanh 300.000 xe cho hàng chục thương hiệu.  Chuyên gia kinh tế Lưu Bích Hồ khi trao đổi với báo giới đã nhận định: Chỉ vài ba năm mà nâng tỉ lệ nội địa hoá ô tô lên 60% sẽ không hề đơn giản vì làm công nghiệp ô tô không giống đầu tư vào các lĩnh vực khác vì đây là sản xuất, cần có kỹ năng về mặt công nghệ và quản lý chứ không phải cứ bỏ tiền ra thuê là làm được.  Vậy nên hãy chờ, ít nhất là 2 năm, để nhìn thành quả Vingroup đạt được khi mà các DN khác mất hàng chục năm chưa đi tới đâu.  Dung lượng thị trường là yếu tố quyết định  Có nhiều lý do dẫn đến sự thất bại của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam trong giai đoạn vừa qua. Song tựu chung có 2 vấn đề được nhắc đến, đó dung lượng thị trường và chính sách.  Có dân số lên tới hơn 90 triệu người, tốc độ tăng trưởng ô tô hàng năm khá cao, nhưng tỉ lệ người dân sở hữu ô tô tại Việt Nam lại rất thấp, 23 chiếc/1.000 dân vào năm 2014, đứng vị trí 151 trên tổng số 191 quốc gia và vùng lãnh thổ. Sau 3 năm, năm 2017, chưa có con số thống kê cụ thể, song thứ hạng này cũng không thay đổi là bao khi lượng xe bán ra vẫn mới chỉ đạt loanh quanh con số 300.000 xe.  Một chuyên gia của Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp (Bộ Công Thương) cho rằng: Nút thắt lớn nhất cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam chính là quy mô thị trường nhỏ, trong khi đó chính là do chính sách thiếu nhất quán, ổn định. Vị chuyên gia này cho rằng: Chính sách cần ổn định và hợp lý để tạo dung lượng thị trường. Gắn với đó, cần phải có DN đầu đàn thu hút vệ tinh xung quanh, thu hút các cơ quan nghiên cứu, thúc đẩy đầu tư hạ tầng để phát triển cụm công nghiệp. Khi dung lượng thị trường đủ lớn tất yếu sẽ thúc đẩy ngành công nghiệp phụ trợ phát triển, giúp giảm giá thành và các nhà đầu tư sẽ mở rộng sản xuất.  Bộ Công Thương dự báo nhu cầu ô tô của Việt Nam đến năm 2025 theo phương án trung bình 800.000-900.000 xe và năm 2030 là 1,5-1,8 triệu xe. Đây là mức dự báo rất cao nếu không có các chính sách hợp lý, nhất quán đi kèm.  Thực tế, Chính phủ ban hành các chính sách ưu đãi, khuyến khích ngành công nghiệp ô tô phát triển, song bên cạnh đó lại có mục tiêu muốn tăng thu từ ngành này, đó là chưa kể còn có các chính sách hạn chế sở hữu ô tô với các mục đích như bảo vệ môi trường, giảm áp lực lên cơ sở hạ tầng đã và đang bị quá tải...  Hiện, các chính sách ưu đãi dành cho ngành sản xuất - lắp ráp ô tô trong nước và công nghiệp phụ trợ cũng được thiết kế theo hướng nhằm tăng cường năng lực và sản lượng sản xuất, láp rắp của các nhà sản xuất, lắp ráp ô tô nội địa để tăng quy mô thị trường với tỷ trọng ngày càng tăng của ô tô nội địa.  Tuy nhiên, theo bà Nguyễn Thị Thanh Hằng, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính) thì quan điểm của Bộ Tài chính là không giảm thuế nhập khẩu linh kiện đại trà cho tất cả các chủng loại xe, mà tập trung vào các loại xe có lợi thế cạnh tranh, phù hợp với chính sách tiêu dùng và các yêu cầu về bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng. Điều này góp phần phát triển ngành công nghiệp ô tô theo chiều sâu.  Từng phụ trách mảng công nghiệp, nguyên Thứ trưởng Bộ Công Thương Lê Dương Quang cho rằng: Dù không thể sánh ngang với nền công nghiệp ô tô của Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc... nhưng trong tương lai Việt Nam vẫn có thể làm được ngành công nghiệp ô tô hiện đại, hợp lý. Vấn đề chỉ là chính sách của chúng ta thế nào thôi...  Theo Hải quan Online
Năm 2005, Điện Quang chính thức được cổ phần hoá và năm 2008 được niêm yết trên sàn chứng khoán HOSE với mã giao dịch DQC.

Cởi dần tấm áo hẹp của doanh nghiệp Nhà nước, thông qua các lần tăng vốn, cho đến hiện tại vốn Nhà nước tại đây còn 45%, không còn nắm quyền chi phối. Bước ngoặt thoái vốn của Nhà nước và sớm lên sàn chứng khoán đã khiến Vinamilk nhanh chóng có thêm đông đảo các nhà đầu tư khác. Đặc biệt, room ngoại của cổ phiếu công ty luôn trong tình trạng lấp đầy suốt nhiều năm.
 
Là doanh nghiệp hiếm hoi trên thị trường đạt tăng trưởng doanh thu mỗi năm khoảng 22% trong 10 năm nay bất chấp thăng trầm của nền kinh tế. Từ mức chưa đầy 4.250 tỷ đồng năm 2004, Vinamilk thành doanh nghiệp đạt tỷ đô doanh thu vào năm 2011 và cán ngưỡng 46.965 tỷ đồng (hơn 2 tỷ USD) vào năm 2016. Sau 12 năm cổ phần hoá, doanh thu công ty đã tăng 10 lần. Vốn điều lệ công ty tăng gấp 10 lần lên mức 14.514 tỷ đồng. Cổ phiếu VNM sau nhiều lần chia cổ tức, chia thưởng vẫn đều đặn tăng giá, chốt phiên giao dịch ngày 18/9, VNM đạt 149.000 đồng/cổ phiếu. Không chỉ thống trị thị trường sữa nội, Vinamilk còn xuất khẩu ra 31 nước trên thế giới với doanh thu hàng trăm triệu USD mỗi năm.
 
Vinamilk hiện cũng là “quán quân” sinh lời lớn nhất sàn chứng khoán với lợi nhuận sau thuế năm 2016 đạt 9.363 tỷ đồng. Hiện Nhà nước đang lên lộ trình thoái vốn tại Vinamilk, giảm sở hữu về 36%. Thoát khỏi mô hình quản lý nhà nước, Vinamilk ngày càng gặt hái được nhiều thành công, doanh thu và lợi nhuận tiếp tục được giới kinh tế trong và ngoài nước kỳ vọng cao. Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) dự báo, lợi nhuận năm 2017 của Vinamilk có thể lên tới 11.000 tỷ đồng. Thực tế 6 tháng đầu năm Vinamilk đã đạt lợi nhuận 5.852 tỷ.
 
Đứng đầu lĩnh vực chiếu sáng, lợi nhuận Điện Quang tăng 52 lần
 
Được thành lập trước Vinamilk một thập kỷ, Công ty cổ phần Bóng đèn Điện Quang (mã chứng khoán DQC) cũng được cổ phần hoá cùng thời với Vinamilk. Sớm trút bỏ “tấm áo Nhà nước” chật hẹp, rời xa ánh hào quang cũng như những nâng đỡ cũng không còn, Điện Quang đã “bứt tốc” mạnh mẽ trở thành doanh nghiệp đứng đầu ngành chiếu sáng tại Việt Nam.
 
Năm 2005, Điện Quang chính thức được cổ phần hoá và năm 2008 được niêm yết trên sàn chứng khoán HOSE với mã giao dịch DQC. So với thế hệ các doanh nghiệp nhà nước lúc bấy giờ, Điện Quang được cổ phần hoá và niêm yết trên sàn khá sớm, hoạt động ngay sau đó đi vào minh bạch, công khai, tuân theo quy định chặt chẽ của HOSE.
 
Đây cũng chính là giai đoạn phát triển rất thần kỳ của thương hiệu “vang bóng một thời” đã sống 45 năm tuổi này. Cụ thể, năm 2005, vốn điều lệ của Điện Quang chỉ 23,5 tỷ đồng đến nay đã tăng lên 343,6 tỷ đồng. Tổng tài sản năm 2005 chỉ 218 tỷ đồng thì đến nay đã tăng lên 1.494 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế năm 2016 đã tăng gấp 52 lần so với năm 2005. Về doanh thu từ mức 160 tỷ của năm 2005, Điện Quang đã trở thành công ty đạt doanh thu ngàn tỷ, năm 2016 đạt 1.038 tỷ đồng.
 
Kỷ lục về doanh thu và lợi nhuận nhất của Điện Quang rơi vào năm 2014. Cả sàn chứng khoán đã chứng kiến màn bứt phá của thương hiệu “vang bóng” khi cán mốc doanh thu 1.229 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt mức 307 tỷ đồng. Tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu của Điện Quang năm đó được xếp vào hàng tốt nhất thị trường.
 
Lãi cơ bản trên mỗi cổ phiếu (EPS) thuộc top của thị trường chứng khoán, năm 2014 đạt mức 11.200 đồng, năm 2016 là 6.410 đồng và năm 2016 đạt 5.730 đồng.
 
Ban lãnh đạo công ty cho biết, việc cổ phần hóa sớm, nhanh chóng đưa hoạt động minh bạch công khai trên sàn chứng khoán đã giúp công tác quản trị của công ty tốt hơn. Cổ phần hóa đã giúp Điên Quang chủ động nắm bắt được các cơ hội về đầu tư như đầu tư công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý, đầu tư cho công tác nghiên cứu thử nghiệm, thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao cống hiến cho công ty.
 
Không chỉ chinh phục thị trường trong nước, các sản phẩm của Điện Quang còn là niềm tự hào dân tộc khi lần lượt được xuất khẩu sang 30 quốc gia trên thế giới gồm thị trường Đông Nam Á, khu vực Trung Đông, EU và cả châu Mỹ.
 
Nhựa Bình Minh dẫn đầu ngành nhựa Việt
 
Là thương hiệu Việt, thành lập cùng thời với Điện Quang, Công ty cổ phần Nhựa Bình Minh (mã chứng khoán BMP) ra đời năm 1977. Nhựa Bình Minh được cổ phần hoá năm 2004, cuối năm 2006 thì niêm yết cổ phiếu trên HOSE. Kể từ sau cổ phần hoá và niêm yết, Nhựa Bình Minh cũng có màn bứt phá ngoạn mục, trở thành doanh nghiệp dẫn đầu thị trường nhựa.
 
Năm 2004, Nhựa Bình Minh có doanh thu 338 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế 33 tỷ. Sau 12 năm, Nhựa Bình Minh đã đạt doanh số 3.678 tỷ doanh thu và lợi nhuận gần 630 tỷ đồng. Quy mô tổng tài sản của Nhựa Bình Minh năm 2016 đạt 2.185 tỷ đồng, tăng gấp 9 lần so với năm 2014.
 
 
Sản xuất chiếc ô tô mang thương hiệu Việt vẫn là ước mơ từ nhiều năm nay Năm 2017, bước vào mốc quan trọng “sống còn”, bất ngờ Vingroup đã tung ra “quả bom” gây chấn động “Sau 2 năm sẽ cho ra đời một mẫu ô tô mang thương hiệu Việt”. Một lần nữa, giấc mơ ô tô mang thương hiệu Việt lại được khuấy lên.  Đeo đuổi một giấc mơ  Tài liệu liên quan đến lĩnh vực sản xuất ô tô tại Việt Nam cho thấy: Gần 60 năm trước, một mẫu xe phiên bản Việt đã được lắp ráp ở miền Bắc. Chiếc xe 4 chỗ hiệu Chiến Thắng lăn bánh vào tháng 12/1958. Xe được phát triển từ mẫu xe Fregate chạy xăng của Pháp trên tinh thần nội địa hóa tối đa.  Năm 1970, mẫu xe La Dalat giá rẻ do người Việt lắp ráp theo tiêu chuẩn của Hãng Citroen (Pháp) cũng từng xuất hiện trên thị trường miền Nam. La Dalat có đến 4 dòng xe, trung bình mỗi năm bán được 1.000 chiếc từ năm 1970 đến 1975, tỉ lệ nội địa hóa đã tăng từ 25% đến 40% vào năm 1975.  Năm 1991, hai DN ô tô có vốn đầu tư nước ngoài đã được thành lập là Xí nghiệp Liên doanh ô tô Hòa Bình và Công ty Liên doanh Mekong Auto. Thời điểm đó liên doanh ô tô này triển khai lắp ráp các thương hiệu xe BMW, Kia, Mazda với mong muốn nhanh chóng tăng tỉ lệ nội địa hoá sản phẩm.  Năm 1995, 3 tên tuổi lớn trong ngành ô tô thế giới cùng thành lập liên doanh đầu tư sản xuất - lắp ráp ô tô tại Việt Nam là Toyota, Ford và Chysler kéo theo sau đó hàng loạt tên tuổi lớn như Ford, Honda, Mitsubishi, Mercedes-Benz... Ngành công nghiệp ô tô giai đoạn đó có tới 16 liên doanh với những tên tuổi lớn được hưởng nhiều chính sách ưu đãi vượt trội.  Năm 2004, hai DN Việt Nam là Công ty Cổ phần ô tô Trường Hải (Thaco) và Công ty Cổ phần ô tô Xuân Kiên (Vinaxuki) đã được Thủ tướng cho phép sản xuất, lắp ráp ôtô các loại.  Vinaxuki với ước mơ và quyết tâm của mình đã đổ hết vốn liếng, đầu tư lên tới hàng trăm tỉ đồng thuê chuyên gia Nhật thiết kế đào tạo công nhân… với mong muốn sản xuất ra các sản phẩm ô tô mang thương hiệu Việt. 3 mẫu xe du lịch mang thương hiệu Việt của Vinaxuki từng có tỉ lệ nội địa hóa 60-65% và được giới thiệu ở nhiều triển lãm. Tuy nhiên Vinaxuki vỡ nợ và phải đóng cửa vào năm 2012 với giấc mơ dang dở.  Còn Thaco đã đầu tư lớn tại tổ hợp ô tô tại Chu Lai, Quảng Nam và chọn cách hợp tác với các thương hiệu quốc tế chưa có cơ sở sản xuất tại Việt Nam và khu vực ASEAN để sản xuất xe du lịch. Lãnh đạo Thaco cho rằng: Phải có thị trường tiêu thụ sau đó mới quay lại đầu tư sản xuất từ các chi tiết đơn giản đến phức tạp, từng bước thâm nhập chuỗi sản xuất của các thương hiệu quốc tế...  Một cái tên khác cũng được nhắc đến trong câu chuyện “làm” ô tô tại Việt Nam đó là Hyundai Thành Công. Năm 2010 DN này nắm trong tay quyền nhập khẩu và phân phối các dòng xe du lịch của Hyundai tại Việt Nam. Chỉ trong thời gian rất ngắn Hyundai Thành Công vươn lên đứng thứ 2 tại thị trường ô tô du lịch Việt Nam với thị phần chiếm 18% và dần chuyển hướng tăng tỉ lệ sản xuất - lắp ráp tại Việt Nam (từ 20% lên 70-80% vào năm 2017).  Có thể nói quyết tâm, mong muốn phát triển ngành CN ô tô, có những sản phẩm nội địa hóa cao, mang thương hiệu Việt được Chính phủ thể hiện rất rõ từ nhiều năm qua, rất nhiều chính sách ưu đãi đã lần lượt ra đời. Làm ra chiếc ô tô mang thương hiệu Việt Nam cũng là ước mong, quyết tâm của nhiều DN. Tuy nhiên đến nay Việt Nam vẫn chưa có sản phẩm mang thương hiệu Việt, tỉ lệ nội địa hóa của các liên doanh đạt rất thấp, nhiều sản phẩm ngừng lắp ráp chuyển sang NK nguyên chiếc, tính cạnh tranh của các sản phẩm trong nước không cao, giá bán xe quá đắt so với khu vực và thế giới.  “Quả bom” Vingroup  Tháng 9/2017, Tập đoàn Vingroup, một cái tên rất nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực nhưng hoàn toàn xa lạ trong làng ô tô tuyên bố khởi công Tổ hợp Sản xuất ô tô Vinfast quy mô 3,5 tỷ USD cùng với mục tiêu làm ra xe ô tô thương hiệu Việt Nam (sau 2 năm), công suất tới 500.000 xe/năm, tỷ lệ nội địa hoá lên tới 60%.  Tập đoàn này được cho là có nguồn tài chính vững chắc khi công bố đã đạt được thỏa thuận vay của ngân hàng Thụy Sĩ 800 triệu USD, với lãi suất phù hợp. Việc có tiền cũng giúp Vinfast mua được công nghệ, mời được những chuyên gia hàng đầu thế giới. Vinfast cũng sẽ ưu tiên mua các linh kiện, phụ kiện mà các nhà sản xuất trong nước đang làm được, đồng thời sẽ hỗ trợ, hợp tác để có thêm nhiều nhà sản xuất các linh kiện, phụ kiện tại Việt Nam.  “Quả bom” Vingroup tung ra khiến ngành ô tô Việt vốn đang loay hoay giữa câu hỏi nhập hay lắp ráp choáng váng! Mục tiêu rất lớn của dự án khiến không ít người trong ngành tỏ ra hoài nghi khi ngành công nghiệp phụ trợ trong nước còn quá yếu và dung lượng thị trường mới loanh quanh 300.000 xe cho hàng chục thương hiệu.  Chuyên gia kinh tế Lưu Bích Hồ khi trao đổi với báo giới đã nhận định: Chỉ vài ba năm mà nâng tỉ lệ nội địa hoá ô tô lên 60% sẽ không hề đơn giản vì làm công nghiệp ô tô không giống đầu tư vào các lĩnh vực khác vì đây là sản xuất, cần có kỹ năng về mặt công nghệ và quản lý chứ không phải cứ bỏ tiền ra thuê là làm được.  Vậy nên hãy chờ, ít nhất là 2 năm, để nhìn thành quả Vingroup đạt được khi mà các DN khác mất hàng chục năm chưa đi tới đâu.  Dung lượng thị trường là yếu tố quyết định  Có nhiều lý do dẫn đến sự thất bại của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam trong giai đoạn vừa qua. Song tựu chung có 2 vấn đề được nhắc đến, đó dung lượng thị trường và chính sách.  Có dân số lên tới hơn 90 triệu người, tốc độ tăng trưởng ô tô hàng năm khá cao, nhưng tỉ lệ người dân sở hữu ô tô tại Việt Nam lại rất thấp, 23 chiếc/1.000 dân vào năm 2014, đứng vị trí 151 trên tổng số 191 quốc gia và vùng lãnh thổ. Sau 3 năm, năm 2017, chưa có con số thống kê cụ thể, song thứ hạng này cũng không thay đổi là bao khi lượng xe bán ra vẫn mới chỉ đạt loanh quanh con số 300.000 xe.  Một chuyên gia của Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp (Bộ Công Thương) cho rằng: Nút thắt lớn nhất cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam chính là quy mô thị trường nhỏ, trong khi đó chính là do chính sách thiếu nhất quán, ổn định. Vị chuyên gia này cho rằng: Chính sách cần ổn định và hợp lý để tạo dung lượng thị trường. Gắn với đó, cần phải có DN đầu đàn thu hút vệ tinh xung quanh, thu hút các cơ quan nghiên cứu, thúc đẩy đầu tư hạ tầng để phát triển cụm công nghiệp. Khi dung lượng thị trường đủ lớn tất yếu sẽ thúc đẩy ngành công nghiệp phụ trợ phát triển, giúp giảm giá thành và các nhà đầu tư sẽ mở rộng sản xuất.  Bộ Công Thương dự báo nhu cầu ô tô của Việt Nam đến năm 2025 theo phương án trung bình 800.000-900.000 xe và năm 2030 là 1,5-1,8 triệu xe. Đây là mức dự báo rất cao nếu không có các chính sách hợp lý, nhất quán đi kèm.  Thực tế, Chính phủ ban hành các chính sách ưu đãi, khuyến khích ngành công nghiệp ô tô phát triển, song bên cạnh đó lại có mục tiêu muốn tăng thu từ ngành này, đó là chưa kể còn có các chính sách hạn chế sở hữu ô tô với các mục đích như bảo vệ môi trường, giảm áp lực lên cơ sở hạ tầng đã và đang bị quá tải...  Hiện, các chính sách ưu đãi dành cho ngành sản xuất - lắp ráp ô tô trong nước và công nghiệp phụ trợ cũng được thiết kế theo hướng nhằm tăng cường năng lực và sản lượng sản xuất, láp rắp của các nhà sản xuất, lắp ráp ô tô nội địa để tăng quy mô thị trường với tỷ trọng ngày càng tăng của ô tô nội địa.  Tuy nhiên, theo bà Nguyễn Thị Thanh Hằng, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính) thì quan điểm của Bộ Tài chính là không giảm thuế nhập khẩu linh kiện đại trà cho tất cả các chủng loại xe, mà tập trung vào các loại xe có lợi thế cạnh tranh, phù hợp với chính sách tiêu dùng và các yêu cầu về bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng. Điều này góp phần phát triển ngành công nghiệp ô tô theo chiều sâu.  Từng phụ trách mảng công nghiệp, nguyên Thứ trưởng Bộ Công Thương Lê Dương Quang cho rằng: Dù không thể sánh ngang với nền công nghiệp ô tô của Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc... nhưng trong tương lai Việt Nam vẫn có thể làm được ngành công nghiệp ô tô hiện đại, hợp lý. Vấn đề chỉ là chính sách của chúng ta thế nào thôi...  Theo Hải quan Online
Năm 2014, Thị trường chứng khoán chứng kiến sự bứt phá của Điện Quang khi cán mốc doanh thu 1.229 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt mức 307 tỷ đồng

Con đường thành công chung của rất nhiều thương hiệu Việt thành danh khác đều có điểm chung là cổ phần hoá, sớm thoát khỏi mô hình quản lý kinh tế nhà nước cùng với sự nhạy bén trong tư duy kinh tế thị trường. Có thể kể đến những doanh nghiệp nức tiếng “ăn lên làm ra” vẫn giữ vững thương hiệu Việt với lợi nhuận từ vài trăm đến hàng nghìn tỷ mỗi năm như Bibica, Vinacafe Biên Hòa, Nhựa Tiền Phong, Sabeco, Habeco, Vinaseed, REE, Coteccons…
 
Chẳng hạn, trước khi cổ phần hóa, Tập đoàn xăng dầu Việt Nam lỗ 1.666 tỷ (năm 2011). Sau khi cổ phần hóa đã có lợi nhuận hơn 5.147 tỷ đồng và doanh thu 123.127 tỷ năm 2016. Đây là năm Petrolimex đạt mức kỷ lục cả về doanh thu lẫn lợi nhuận.
 
Theo đánh giá của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa hầu hết đều sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, nộp ngân sách và thu nhập của người lao động được nâng lên.
 
Ông Nguyễn Duy Long (Cục Tài chính doanh nghiệp - Bộ Tài chính) đánh giá, một trong những minh chứng đúng đắn cho chủ trương đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đó là những điển hình doanh nghiệp sau cổ phần hoá thành công, hiệu quả hoạt động cải thiện mạnh mẽ.
 
Số liệu báo cáo của các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá giai đoạn 2011-2015 cũng cho thấy, kết quả hoạt động kinh doanh của năm sau đều tăng hơn so với năm trước cổ phần hoá: Vốn điều lệ tăng 72%; tổng tài sản tăng 39%; vốn chủ sở hữu tăng 60%; doanh thu tăng 29%; lợi nhuận trước thuế tăng 49%; nộp ngân sách tăng 27%; thu nhập bình quân của người lao động tăng 33%.
 
Ông Long khẳng định việc cổ phần hoá gắn với niêm yết cũng đã giúp tăng cường với sự kiểm tra giám sát của xã hội đối với hoạt động của doanh nghiệp; tạo áp lực đòi hỏi các doanh nghiệp này phải tiếp cận với phương thức quản trị mới, công khai hơn, minh bạch hơn, tự chủ hơn và hiệu quả hơn.
 
TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đánh giá cổ phần hoá là cách để các doanh nghiệp nhà nước bỏ thói quen trông vào sự hỗ trợ của Nhà nước, tham gia thật sự vào thị trường. Môi trường kinh doanh Việt Nam cũng hưởng lợi lớn từ việc này.
 
Theo Dân trí
BÌNH LUẬN FACEBOOK
TIN LIÊN QUAN

Bộ Công Thương giữ nguyên biện pháp chống bán phá giá thép hợp kim   (06/05/2022)

Triển lãm sách trực tuyến chào mừng kỷ niệm 75 năm Quốc khánh 2/9   (25/08/2020)

Bộ Công Thương ban hành kế hoạch hành động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng   (27/07/2020)

Ra mắt website đầu tiên của Việt Nam về du lịch y tế   (21/07/2020)

Vắc-xin Covid-19 - made in Vietnam vượt tiến độ dự kiến   (26/06/2020)

Vietnam Report công bố 500 doanh nghiệp tăng trưởng nhanh nhất Việt Nam   (03/06/2020)

3 mạng viễn thông dừng phát hành sim điện thoại từ 1-6   (02/06/2020)

80 quốc gia được Việt Nam cấp thị thực điện tử   (27/05/2020)

Việt Nam đứng thứ hai thế giới về mức độ hài lòng của người dân trong phòng, chống COVID-19   (15/05/2020)

Phát động chương trình Người Việt Nam đi du lịch Việt Nam   (14/05/2020)

THƯƠNG HIỆU TIN DÙNG